Nhưng
ở mỗi mức độ, Tánh không được biểu thị với những tầng ý nghĩa khác nhau. Khi khảo
sát bài kinh số 121, Tiểu Không kinh – Trung Bộ kinh, chúng ta có thể thấy rõ…
Trong
đoạn kinh đầu, với việc vấn thoại của Ngài A Nan và Thế Tôn đã trả lời như sau:
“Ví như lâu đài Lộc Mẫu này không có voi, bò, ngựa, ngựa cái, không có vàng và
bạc, không có đàn bà, đàn ông tụ hội, và chỉ có một cái không phải không, tức
là sự nhất trí do duyên chúng Tỷ-kheo; cũng vậy, này Ananda, Tỷ-kheo không tác
ý thôn tưởng, không tác ý nhơn tưởng, chỉ tác ý sự nhất trí, do duyên lâm tưởng.
Tâm của vị ấy được thích thú hân hoan, an trú, hướng đến lâm tưởng. Vị ấy tuệ
tri như sau: "Các ưu phiền do duyên thôn tưởng không có mặt ở đây; các ưu
phiền do duyên nhân tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức
là sự nhất trí do duyên lâm tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này
không có thôn tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có nhân tưởng".
Và chỉ có một cái này không phải không, tức là sự nhất trí do duyên lâm tưởng".
Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái
còn lại, ở đây, vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này có". Như vậy, này
Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện
hoàn toàn thanh tịnh, không tánh”.
Đoạn
kinh trên, Phật đang dạy về đề mục thiền định và có nhắc đến nghĩa “Không”. Ở mức
độ này, “Không tánh” mang nghĩa là sự tu tập thiền chỉ. Nó là một trạng thái nhất tâm trên một đối tượng
duy nhất; và nghĩa “Không” ở đây được hiểu là tác ý rõ ràng trên đối tượng,
“cái gì có ghi nhận có, cái gì không ghi nhận không”, đó là trạng thái có chánh
niệm trên đề mục, như đoạn “Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có thôn
tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có nhân tưởng". Và
chỉ có một cái này không phải không, tức là sự nhất trí do duyên lâm tưởng”. Đó
là bước đầu thực hành Không tánh.
Các
bước thiền định tiếp theo, theo kinh văn, Phật dạy từ lâm tưởng đến vô tướng tâm
định, và đều được Ngài tuyên thuyết bằng đoạn văn “…Như vậy, này Ananda, cái
này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn
thanh tịnh, không tánh”.
Đó là Không tánh theo nghĩa thiền chỉ, theo pháp tục đế; mặt còn lại của kinh văn chỉ rõ bước thiền quán hoàn diệt, tức phép quán làm nội tâm vắng bặt các cấu trúc của ngôn ngữ và tâm hành, thành tựu Không tánh tối thượng (niết bàn). Nội dung nằm ở đoạn kinh văn sau: “…Lại nữa, này Ananda, vị Tỷ-kheo không tác ý Vô sở hữu xứ tưởng, không tác ý Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng, tác ý sự nhứt trí do duyên Vô tướng tâm định. Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Vô tướng tâm định. Vị ấy tuệ tri như sau: "Vô tướng tâm định này thuộc hữu vi, do tâm tư tạo nên. Phàm cái gì thuộc hữu vi, do tâm tư tạo nên, cái ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt", vị ấy tuệ tri như vậy. Do vị ấy tuệ tri như vậy, thấy như vậy, tâm được giải thoát khỏi dục lậu, tâm được giải thoát khỏi hữu lậu, tâm được giải thoát khỏi vô minh lậu. Trong sự giải thoát, là sự hiểu biết rằng đã được giải thoát. Vị ấy tuệ tri: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn phải trở lại trạng thái này nữa…” (Không tánh này biểu thị cho “hữu dư y niết bàn”).
Đoạn kinh này, có thể
xem là tương đương với một đoạn ngắn trong Bát nhã Tâm kinh - một bản kinh trong
văn hệ Sanskrit cũng đã đề cập đến tinh thần thiền học có nhiều nét tương đồng
với Tiểu Không kinh trong văn hệ Pāḷi. Đó là đoạn: “…tasmācchāriputra śūnyatāyāṃ
na rūpam, na vedanā, na saṃjñā, na saṃskārāḥ, na vijñānāni.
Na
cakṣuḥśrotraghrāṇajihvākāyamanāṃsi, na
rūpaśabdagandharasaspraṣṭavyadharmāḥ. na cakṣurdhāturyāvanna manodhātuḥ. na
vidyā nāvidyā na vidyākṣayo nāvidyākṣayo yāvanna jarāmaraṇaṃ na jarāmaraṇakṣayo
na duḥkhasamudayanirodhamārgā na jñānaṃ na prāptitvam (Āprāptivāt)”.
(Do đó, Xá Lợi Tử, trong trạng thái không thì
không có sắc, không có thọ, không có tưởng, không có hành, không có thức. Không
có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Không có nhãn giới cho đến không có cõi ý thức. Không có minh, không có vô
minh, không hết minh, không hết vô minh, cho đến không có già chết, không có hết
già chết, không khổ, tập, diệt, đạo, không trí và không đắc (vì không có sự nắm
bắt)). Điểm đặc sắc của đoạn kinh là đoạn “Không có minh, không có vô minh,
không hết minh, không hết vô minh” (bản Hán truyền không có), vì nó chỉ là cấu
trúc của nhận thức ngôn ngữ, cái gì được cấu trúc (cấu trúc, Phạn ngữ
“vikalpa”: Huyền Trang dịch là “phân biệt”) cái đó không thật (nên không nắm bắt);
cũng như trong kinh Tiểu Không trên: “Vị ấy tuệ tri như sau: "Vô tướng tâm định này thuộc hữu vi, do
tâm tư tạo nên. Phàm cái gì thuộc hữu vi, do tâm tư tạo nên, cái ấy là vô thường,
chịu sự đoạn diệt", vị ấy tuệ tri như vậy... Trong sự giải thoát, là sự hiểu
biết rằng đã được giải thoát” đều cùng có nghĩa là không còn sự nắm bắt và
chấp thủ.
Vậy
nghĩa “Không” tối thượng mà Tiểu không kinh cũng như Bát nhã Tâm kinh đề cập
chính là sự không còn nắm bắt, chấp thủ các cấu trúc ngôn ngữ và tâm hành, hay
nói cách khác là viễn ly các cấu trúc của tâm và tâm sở để an trú vào trạng
thái tịch diệt của tâm, trạng thái thưỡng viễn ly tiền tánh (Duy thức) hay
“không còn nắm bắt bất cứ thứ gì trên đời” (Đại Niệm Xứ kinh), “không trí cũng
không đắc” (Bát nhã Tâm kinh) hay rõ nét nhất là trong Kinh Pháp Ấn – Tạp A hàm
“Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không
diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc
sắc tướng, chẳng có các tưởng, vốn vô sanh, tri kiến không thể nhận biết, xa
lìa chấp trước. Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng,
tức tri kiến chân thật. Tánh Không như vậy, các pháp cũng như vậy”.
Ngoài
nghĩa “Không” biểu thị niết bàn (nibbāna), “Không” còn mang ý nghĩa của duyên
khởi (paticcasamuppāda), đoạn “…Phàm cái gì thuộc hữu vi, do tâm tư tạo nên,
cái ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt", vị ấy tuệ tri như vậy….” đây
chính là đặc tính của duyên khởi, liên hệ tới Duy thức, Thế Thân cũng đã đúc kết
rằng, cái đời sống dưới tên gọi là ngã và pháp có sự biến đổi đa dạng, sự biến
đổi đó xảy ra trong sự biến đổi của thức; hay trong kinh Đệ Nhất Nghĩa Không –
Tạp A Hàm: “Thế nào là kinh Đệ nhất nghĩa không? Này các Tỳ-kheo, khi mắt sanh
thì nó không có chỗ đến; lúc diệt thì nó không có chỗ đi. Như vậy mắt chẳng thật
sanh, sanh rồi diệt mất; có nghiệp báo mà không tác giả. Ấm này diệt rồi, ấm
khác tương tục, trừ pháp tục số. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng nói như vậy”.
Những
khảo sát trên, cho thấy rằng, nội dung “Không tánh” trong kinh Tiểu Không bao
hàm hai giá trị cốt lõi đó là không tánh tối thượng - niết bàn; cũng như không
tánh - duyên khởi của Phật giáo. Đó là một nét đặc sắc và quan trọng mà nội hàm
của “Không tánh” bao quát. Từ đó, có thể thấy, thực hành “không tánh” là thực
hành mọi giá trị của Phật giáo. Đó cũng là tinh thần Phật dạy trong Tiểu Không
kinh.
Trung
Nhân.
Tin Tức Liên Quan
- Quán niệm hơi thở trong Phân Tích Đạo ( 5/08/2019 5:41)
- Nhìn lại nơi chính mình (10/04/2019 9:04)
- Tôi là ai - Bạn là ai? ( 7/04/2019 6:24)
- Tối giản là một Pháp môn (19/03/2019 4:22)
- Hương Pháp (16/03/2019 5:08)
- Tìm hiểu Lý duyên khởi (15/03/2019 3:25)
- Thấy gì nơi hoa sen ( 6/03/2019 4:40)
- Quét Sạch Rác Tâm. (27/05/2018 1:08)