Đức Thế Tôn dạy rằng:
Thường tôn trọng, kính lễ,
Bậc kỳ lão trưởng thượng;
Bốn pháp được tăng trưởng:
Thọ, sắc, lạc, sức mạnh (1).
Từ thuở xưa, theo kinh điển ghi lại, sau khi thọ trai xong, Đức Phật sẽ tùy thời mà “nói lời tùy hỷ (công đức). Ngài nói lời tùy hỷ (công đức), không chỉ trích bữa ăn ấy, không mong bữa ăn khác; trái lại, Ngài với pháp thoại khai thị hội chúng ấy, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ. Ngài sau khi với pháp thoại khai thị hội chúng ấy, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi”(2). Và trong nội dung bài viết này, chúng ta sẽ cùng nhau khảo sát về bốn pháp chúc tụng mà chư Tăng thường hay chúc tụng đến các Phật tử. Bốn pháp chúc mừng gồm: tuổi thọ (āyu), dung sắc (vaṇṇa), an lạc (sukha), và sức mạnh (bala).

Bốn pháp chúc mừng gồm: tuổi thọ (āyu), dung sắc (vaṇṇa), an lạc (sukha), và sức mạnh (bala)
1. Tuổi thọ (āyu)
Sự trường thọ thì không phải ai muốn cũng được. Từ xưa, biết bao
vị vua chúa đã bỏ công bỏ của để tầm cầu phương thuốc trường sinh bất tử, nhưng
rồi vẫn chưa có ai thành công và bất tử cả. Con người trên thế gian này, không
phải ai cũng đủ phước báu để sống lâu trăm tuổi hay răng long đầu bạc. Dĩ nhiên
rằng, việc sống lâu còn đồng nghĩa là sống khỏe, không bệnh tật thì việc sống
lâu mới có giá trị. Còn như sống trăm tuổi già mà bệnh tật liên miên, đau nhức
vật vờ thì còn gì ý nghĩa nữa. Có rất nhiều nguyên nhân, điều kiện để có thể
đạt được sự sống lâu trong cuộc đời:
Thứ nhất, phải nói đến là nhân quả nghiệp báo. Trường thọ hay yểu
mệnh một phần là do nhân quả quyết định. Nếu một người cứ sát sanh, giết hại
chúng sanh không biết sợ tội lỗi thì người ấy sau khi chết bị sanh vào cõi dữ,
ác thú, địa ngục. Nếu như được sanh làm người thì chắc chắn do nghiệp ác dư
sót, kẻ ấy không thể nào được trường thọ, sẽ phải bị đoản thọ, yểu mệnh(3).
Vì vậy, mong muốn được sống lâu thì phải biết giữ giới, nhất là không sát sanh,
không bảo sát hại, không đánh đập, hành hạ chúng sanh khác.
Thứ hai, nhân tố quyết định tuổi thọ là vật thực. “Tất cả chúng
sanh duy tồn nhờ vật thực”(4). Chính vật thực là nguồn sống cần
thiết cho mỗi chúng sanh. Tuy nhiên, không phải chỉ có vật thực là được, mà
phải biết lựa chọn hợp lý. Người ta thường bảo: “Họa tùng khẩu xuất, bệnh tùng
khẩu nhập” nghĩa là tai họa từ miệng mà ra, bệnh tật từ miệng mà vào. Vì vậy,
ăn uống là một vấn đề vô cùng quan trọng đối với sức khỏe con người. Khi một
người đã mang căn bệnh hiểm nghèo, thì mới thấy sức khỏe là quý. “Không bệnh
lợi tối thượng”(5). Cho dù một người đang ở trong nhà cao cửa rộng, xe hơi lộng
lẫy đắt tiền, có nhiều tiền lắm của, sự nghiệp cao sang nhưng đang mang một căn
bệnh giày vò, uể oải thì con người đó vẫn luôn bất an, buồn lo và chán nản. Vì
vậy, “Hãy ăn uống cho thích nghi”(6). Đức Phật dạy trong kinh Tăng
chi bộ, có năm pháp làm tăng tuổi thọ như là: làm việc thích hợp; tiết độ trong
sự thích hợp; ăn đồ dễ tiêu hóa; sở hành hợp thời; và sống phạm hạnh(7).
Hãy học theo gương của Thế Tôn, Ngài thọ dụng vật thực không phải để hưởng thụ
món ngon mà Ngài ăn đồ ăn vừa phải với cơm, không có bỏ miếng cơm, chỉ lựa
miếng thức ăn, Thế Tôn thưởng thức vị ăn khi ăn đồ ăn, không thưởng thức lòng
tham vị, ăn không phải để vui đùa, không phải để đam mê...(8)
Và chính Đức Phật khuyên dạy đức vua Pasenadi từ bỏ thói ham ăn và ăn uống hợp
lý hơn để có sức khỏe và tuổi thọ:
Con người thường chánh niệm,
Ðược ăn, biết phải chăng,
Chừng mực, cảm thọ mạnh,
Già chậm, tuổi thọ dài (9).
Ngoài ra, việc bố thí cúng dường vật thực và phóng sanh cũng là
một cách để giúp gia tăng tuổi thọ. Người thí chủ đã xả tài, bố thí với bàn tay
rộng mở thì người ấy đã dẹp bỏ tính ích kỷ, bỏn sẻn, hẳn nhiên tâm trí sẽ được
an lạc với sự không dính mắc ấy. Người sống mà không buồn phiền, chấp thủ thì
chắc chắn sẽ sống vui vẻ, sống tốt. Nhất là người bố thí mạng sống cho chúng
sanh khác thì lại càng có phước báu hơn. “Sau khi cho thọ mạng, người cho được
chia phần thọ mạng, thuộc chư Thiên hay loài Người”(10).
Bố thí bậc tối thượng,
Phước tối thượng tăng trưởng,
Tối thượng về thọ mạng,
Dung sắc và danh văn (11).
Như vậy, người nào muốn được sống lâu, sống thọ thì phải biết sống
tốt, sống khỏe, không nên tham đắm trong việc ngủ nghỉ, cũng không nên phí công
bỏ sức tầm cầu một loại thuốc trường sinh hay nguyện cầu vô ích. “Tất cả hành
vô thường”(12) thì không thể nào tránh khỏi sự biến hoại, đổi
thay. Tuổi thọ mỗi loài chúng sanh đều có hạn định riêng, sự chết chắc chắn
phải xảy ra. Việc quan trọng là sống phải có ích, sống tốt và xứng đáng kiếp
sống của mình.
Dẫu một trăm năm sống,
Không thấy pháp vô thường
Chẳng bằng một ngày sống,
Mà thấy pháp vô thường. (13)
2. Dung sắc (vaṇṇa): sắc đẹp, nhan sắc thù thắng
Ông bà ta dạy “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” để dạy con cháu hãy quan
trọng vào chất lượng của nội dung bên trong chớ đừng chú ý vào số lượng bên
ngoài. Con người dù có đẹp nhưng phẩm chất đồi bại, tính nết xấu xa thì không
nên thân cận. Như thế, đạo đức con người mới là thứ quan trọng nhất. Tuy nhiên,
trong phép giao tiếp ban đầu, cái nhìn đầu tiên của chúng ta thường để ý xem về
hình thức nhiều hơn. “Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân”, vì vậy hình tướng bên
ngoài đôi khi cũng là một phần vai trò trong việc đóng góp sự thành công trong
giao tiếp. Bởi vì, họ có được sắc đẹp tức là họ có phước, họ đã từng tạo thiện
nghiệp nên giờ họ mới có được dung sắc thù thắng hơn người như thế.
Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào thiện
thú, thiên giới, ở đời, nếu người ấy đi đến loài người, chỗ nào người ấy sanh
ra, người ấy đẹp sắc. Con đường ấy đưa đến đẹp sắc, này thanh niên, tức là
không phẫn nộ... không bất mãn (14).
Không đâu xa xôi, chính Đức Thế Tôn của chúng ta, từ vô lượng kiếp
quá khứ, Ngài đã vun tạo nhiều phước thiện nên kiếp cuối này sanh ra, Ngài đầy
đủ 32 đại nhân tướng (mahāpurisalakkhaṇa) và 80 vẻ đẹp (anubyañjana). Để có
được tướng hảo thù thắng như vậy, Đức Bồ-tát đã tạo vô số thiện pháp từ vô
lượng kiếp, như là sống chừng mực, kiên trì và không dao động đối với các thiện
pháp, tam nghiệp thiện hạnh, hiếu kính với mẹ cha, cúng dường Sa-môn, cúng
dường Bà-la-môn, từ bỏ nói dối, từ bỏ nói hai lưỡi, tránh nói lời độc ác, từ bỏ
sát sanh, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình,
không sân hận...(15) Đó là một số ít trong vô số thiện
hạnh mà Đức Bồ-tát đã phải thực hành trong quá khứ và cũng là nhân để Ngài nhận
được kết quả là những tướng hảo thù diệu không ai có. Có những người đến với
Đức Phật vì niềm tin, vì nghe tiếng tốt về Thế Tôn, vì giới hạnh của Ngài, vì
Ngài thuộc dòng vua chúa, và cũng có những người đến với Đức Phật vì hảo tướng
của Ngài, vì tò mò về dung sắc của Ngài, điển hình là Tôn giả Vakkali(16).
Nhờ dung sắc đặc thù như vậy mà Thế Tôn đã thu phục được nhiều hạng ngoại đạo
như Bà-la-môn Brahmāyu(17) chẳng hạn. Không những thế, một
trong Bốn như ý đức của một vị Chuyển luân vương là đẹp trai, khả ái, cử chỉ
thanh lịch, sắc diện tuyệt luân, thấy xa hơn mọi người(18).
Để có được dung sắc thù thắng, khả ái, khả hỷ, chúng ta phải sống
với tâm niệm thiện không sân hận, không ác ý, không nên phẫn nộ, bất bình,
không nên chấp giữ sân hận trong tâm. Để được như thế, chúng ta hãy tu tập tâm
từ, vì sống với tâm từ thì tâm của chúng ta sẽ luôn luôn mát mẻ, an lạc. Hơn
thế nữa, việc tu tập tâm từ sẽ đem đến mười một lợi ích như là: ngủ an lạc;
thức an lạc; không ác mộng; được loài người ái mộ; được phi nhân ái mộ; chư
Thiên bảo hộ; không bị lửa, thuốc độc, kiếm xúc chạm; tâm được định mau chóng;
sắc mặt trong sáng; mệnh chung không hôn ám; nếu chưa thể nhập thượng pháp
(A-la-hán quả) thì được sanh lên Phạm thiên giới(19).
3. An lạc (sukha): thân tâm an lạc, hạnh phúc
Đi tìm nguồn hạnh phúc, an lạc luôn là một ước vọng chính đáng của
nhân loại đã có từ xa xưa. Tại Ấn Độ xưa, người ta đã tự họp nhau lại bàn bạc
xem cái gì là hạnh phúc nhất. Những cuộc tranh luận, cãi cọ cuối cùng không xác
định được cái gì mới là hạnh phúc nhất. Câu chuyện tranh cãi ấy kéo dài suốt 12
năm trời. Cho đến khi Đức Thế Tôn truyền bá Chánh pháp, có vị trời xuống đảnh
lễ Ngài và xin Ngài giảng giải những pháp đem đến hạnh phúc. Và do đó, Đức Thế
Tôn giảng giải về 38 pháp hạnh phúc cao thượng(20), là những pháp
hạnh phúc từ thấp đến cao.
Sự an lạc, hạnh phúc đối với người tại gia cư sĩ, Đức Phật dạy có
bốn điều: lạc sở hữu là sự an lạc vì có được tài sản thu hoạch hợp pháp; lạc
hưởng thụ là sự an lạc khi thọ dụng tài sản của chính mình để nuôi mạng; lạc vô
trái là sự an lạc do không bị mắc nợ ai; và lạc vô tội là sự an lạc do không
làm điều ác(21). Trong bốn điều an lạc này, lạc vô tội là điều an
vui có giá trị cao nhất vì nó khiến cho con người được an lạc thật sự, không
phải nơm nớp lo sợ vì lỗi lầm, vì việc ác đã làm; hơn nữa, mình không phải lo
sợ bị sanh vào cõi khổ sau khi mạng chung.
Một lần nọ, vương tử Hatthaka
đi đến yết kiến Thế Tôn khi Ngài đang trú trong rừng Siṃsapā ở Gomagga. Vương
tử Hatthaka thấy Thế Tôn trú trong rừng trong đêm đông rét lạnh, đất cứng do
trâu bò giẫm đạp, nệm làm bằng lá mỏng manh, những lá cây lưa thưa, mà tấm vải
cà-sa thì mỏng, và gió thổi lạnh nên hỏi Ngài có được an lạc chăng? Thế Tôn xác
nhận: “Ta sống được an lạc. Và những ai cảm thấy an lạc ở đời, Ta là một trong
số những người ấy”(22). Qua cuộc đàm luận giữa rừng với Đức Phật,
vương tử đã rút ra được bài học: dầu sống trong cung vàng điện ngọc, gác tía
lầu son nhưng nội tâm còn nhiệt não do tham ái chi phối thì không thể nào cảm
nhận được sự an lạc thật sự.
Đức Phật muốn hướng đến cho chúng đệ tử của Ngài: sự an lạc, hạnh
phúc nơi thân tâm không nên lệ thuộc vào vật chất. Để được điều đó, phải biết
sống trong hiện tại, đừng nuối tiếc về quá khứ đã xảy ra cũng chớ ngóng trông
về tương lai chưa đến. Khi sống với hiện tại, tâm thân ta trở nên an lạc với
cái chúng ta đang có.
Không than việc đã qua,
Không mong việc sắp tới,
Sống ngay với hiện tại,
Do vậy, sắc thù diệu (23).
4. Sức mạnh (bala): thể lực, khỏe mạnh
Sức mạnh ở đây chính là cơ thể khỏe mạnh, vô bệnh, thân thể tráng
kiện. Để có được những điều này, cần phải có một chế độ ăn uống hợp lý, sinh
hoạt phù hợp, làm những việc vừa sức. Ngoài ra, gìn giữ cho tinh thần thoải
mái, an lạc cũng là một điều khiến cho cơ thể được khỏe mạnh.
Hơn thế nữa, trong kinh điển, Đức Phật dạy về sức mạnh có rất
nhiều loại, điển hình là năm hữu học lực như: tín lực, tàm lực, quý lực, tấn
lực, tuệ lực(24). Tín lực là sức mạnh không dao động trước sự vô
tín; là đạt niềm tin trọn vẹn vào Tam bảo, nhất là Đức Phật. Tàm lực là sức
mạnh khi hổ thẹn tội lỗi, hổ thẹn đối với các ác bất thiện pháp. Quý lực là sức
mạnh ghê sợ đối với tội lỗi, đối với các ác bất thiện pháp. Tấn lực là sức mạnh
không dao động trước sự lười nhác. Nỗ lực thực hành bốn pháp Chánh cần. Tuệ lực
là sức mạnh không dao động trước vô minh.
Một cơ thể khỏe mạnh, có
sức đề kháng thì không vi khuẩn nào có thể tấn công, bệnh không thể phá hoại;
cũng vậy, người nào có được những sức mạnh đề cập ở trên thì sẽ không bị phiền
não hoặc những pháp chướng ngại làm cản trở con đường tu tập.
Tóm lại, lời kinh chúc phúc của chư Tăng như là lời chúc tụng và
ước nguyện cho chư thiện tín được thành tựu những điều hạnh phúc, an lạc. Cũng
nên biết rằng: chư Tăng tụng chúc phúc như vậy chứ không hẳn mình chắc chắn sẽ
được như vậy. Vì nếu có chúc tụng cả ngày, cả tuần mà người ấy vẫn ăn chơi sa
đọa, không tri túc trong ăn uống, dính mắc mọi thứ thì làm sao được an lạc,
được khỏe mạnh. Cho nên, tụng kinh là một chuyện mà người muốn được thành tựu
hay không cũng là do người chứ không phải do chư Tăng. Các vị xuất gia chỉ là
ruộng phước để người có tín tâm gieo trồng thiện pháp, còn họ gieo gì thì phải
do hành động của họ mà thôi.
Nhân dịp năm mới, kính chúc quý vị một năm mới an khang, tràn đầy
hỷ lạc và thành tựu được cả bốn pháp chúc mừng: sống lâu, sắc tốt, an vui và
sức mạnh.
Bhik. Samādhipuñño Định Phúc
(Báo Giác Ngộ Xuân Canh Tý)
__________
1Kinh Pháp cú, kệ 109
(Dhp.109). 2Kinh Trung bộ, kinh Brāhmāyu (M.ii.139). 3Kinh
Trung bộ, kinh Tiểu nghiệp phân biệt (M.iii.203). 4Kinh Trường
bộ, kinh Thập thượng (D.iii.273). 5Kinh Pháp cú, kệ 204
(Dhp.204). 6Kinh Trường bộ, kinh Đại Thiện Kiến vương
(D.ii.173). 7Kinh Tăng chi bộ, chương Năm pháp, phẩm Bệnh, kinh
Tuổi thọ (A.iii.145). 8Kinh Trung bộ, kinh Brāhmāyu
(M.ii.138f). 9Kinh Tương ưng bộ, tương ưng Kosala, phẩm thứ
hai, phần Ðại thực, kinh Ăn nhiều (S.i.81). 10Kinh Tăng chi bộ,
chương Bốn pháp, phẩm Nguồn sanh phước, kinh Sudatta (A.ii.64). 11Kinh
Tăng chi bộ, chương Bốn pháp, phẩm Bánh xe, kinh Các lòng tin (A.ii.35). 12Kinh
Pháp cú, kệ 277 (Dhp.277). 13Kinh Pháp cú, kệ 113
(Dhp.113). 14Kinh Trung bộ, kinh Tiểu nghiệp phân biệt
(M.iii.203). 15Kinh Trường bộ, kinh Tướng (D.iii.143ff). 16Kinh
Tương ưng bộ, tương ưng Uẩn, phẩm Trưởng lão, kinh Vakkali (S.iii.119ff). 17Kinh
Trung bộ, kinh Brāhmāyu (M.ii.133ff). 18Kinh Trường bộ, kinh
Đại Thiện kiến vương (D.ii.177). 19Kinh Tăng chi bộ, chương
Mười một pháp, phẩm Tùy niệm, kinh Từ (A.v.342). 20Tiểu tụng,
kinh Điềm lành (Kp.2ff). 21Kinh Tăng chi bộ, chương Bốn pháp,
phẩm Nghiệp công đức, kinh Không tội (A.ii.69). 22Kinh Tăng chi
bộ, chương Ba pháp, phẩm Sứ giả của trời, kinh Hatthaka (A.i.136f). 23Kinh
Tương ưng bộ, tương ưng Chư thiên, phẩm Cây lau, kinh Rừng núi (S.i.9). 24Kinh
Tăng chi bộ, chương Bốn pháp, phẩm Đạo hành, kinh Bất tịnh (S.ii.151).
Theo Giacngo.vn
Tin Tức Liên Quan
- Hạnh phúc là tĩnh lặng (26/01/2020 7:36)
- Tìm Hiểu Về Tánh Không Trong Kinh Tiểu Không (11/08/2019 4:59)
- Quán niệm hơi thở trong Phân Tích Đạo ( 5/08/2019 5:41)
- Nhìn lại nơi chính mình (10/04/2019 9:04)
- Tôi là ai - Bạn là ai? ( 7/04/2019 6:24)
- Tối giản là một Pháp môn (19/03/2019 4:22)
- Hương Pháp (16/03/2019 5:08)
- Tìm hiểu Lý duyên khởi (15/03/2019 3:25)
- Thấy gì nơi hoa sen ( 6/03/2019 4:40)
- Quét Sạch Rác Tâm. (27/05/2018 1:08)