Kính bạch Đức Thế Tôn,
Đau buồn thay, trước thềm Phật đản
- kỷ niệm ngày ra đời của Đức Thế Tôn, giông bão của kỳ thị, bôi nhọ, chống phá
ập vào cửa thiền. Với tâm phàm phu này, chúng con thật xót xa biết bao khi người
ta bảo “đi tu là cái nghề”, “bọn cạo đầu là những kẻ ăn bám”, là “đạo làm
giàu”, “xây chùa to Phật lớn là để kinh doanh” … Chưa bao giờ hai cụm từ “đi
tu” và “Phật giáo” lại trở nên nhạy cảm và khiến đại đa số quần chúng phải dè
chừng như vậy!
Lịch sử đã kể cho chúng con nghe về
Đạo Phật Việt Nam suốt hơn hai thiên kỷ qua; thời kỳ nào cũng xuất hiện các bậc
thánh tăng, hiền tăng, chân tăng; hoặc ẩn tu hoặc hiện hành, hoặc có mặt ở hình
thức này hay hình thức khác; từ phò vua giúp nước cho đến nâng đỡ, giúp đời hướng
thiện, làm chỗ dựa tinh thần cho những hoàn cảnh éo le, không còn lối thoát: Một
Khuông Việt quốc sư giúp vua Lê Đại Hành an dân, trị quốc; một Pháp Thuận thiền
sư thay mặt triều đình tiếp các sứ thần phương Bắc; một Vạn Hạnh thiền sư vừa
là cố vấn chính sự cho vua Lê Đại Hành nhưng cũng là thầy, là dưỡng phụ của Lý
Công Uẩn, là kiến trúc sư gầy dựng nên triều đại nhà Lý mở đầu cho thời kỳ vàng
son rực rỡ. Tiếp theo là Trần triều với Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông…. đều
là những minh quân lỗi lạc, là những thiền sư làm sáng đạo trong đời. Ngọn đèn
thiền đã chiếu sáng dòng tư tưởng, văn hóa dân tộc từ thiên kỷ đầu, xuyên tiếp
bốn trăm năm qua hai triều đại Lý - Trần vàng son rồi tiếp tục làm vẻ vang dân
tộc qua các triều đại sau này.
Buổi sơ khai của xã hội Việt Nam,
ngôi chùa là môi trường thực hiện sứ mệnh giáo dục, văn hóa, đạo đức… mang lại
nếp sống thuần thiện; là trung tâm nuôi dưỡng lòng từ cho biết bao thân phận sa
cơ lỡ vận; là nơi động viên tinh thần, củng cố nghị lực, mang lại bình an cho
biết bao người khi phải đối mặt với cái khổ tử sinh.
Trí tuệ và văn minh Đại Việt đã dựng
lên chùa Một Cột, cũng gọi là chùa Diên Hựu - Phúc lành dài lâu - vươn lên
trong hồ sen thoát tục giữa thủ đô nghìn năm văn hiến là biểu tượng văn hóa
thiêng liêng của dân tộc suốt hằng nghìn năm nay, chở che hồn Việt qua những
hưng suy. Đi khắp năm Châu không ai không biết đây là quốc hồn của xứ sở Lạc Hồng.
Con không biết liệu có một biểu tượng mang giá trị văn hóa tinh thần tương
đương đại diện cho nền văn hoá - lịch sử dân tộc như ngôi chùa “Phúc lành dài
lâu” cho tổ quốc?
Cố nhiên, dưới chân những ngọn cao
sơn hùng vĩ vẫn có một vài gốc cây khô mục; giữa trời biển bao la vẫn tồn tại
những rác rưởi nổi trôi. Cũng vậy, nếu như có một vài viên gạch nứt nẻ nơi cửa
thiền, chưa đủ tỉnh giác, bị sai sử bởi dục vọng, thì cũng có hàng nghìn nghìn
đóa hoa trong vườn Phật tô điểm cuộc sống, làm thơm ngát cho đời, luôn nỗ lực
ngày ngày thực hiện công trình giáo dục nhân tâm. Nếu như hiện tại Đạo Pháp
đang gánh chịu những vụn về của một vài chiếc áo vàng vướng tục, thì những đóng
góp to lớn của Phật giáo trên các lĩnh vực đạo đức, giáo dục, văn hóa, thiện
nguyện… là những viên đá tảng góp phần to lớn xây dựng xã hội là điều không thể
chối bỏ. Đâu vì một vài khúc gỗ mục mà đạp đổ cả hùng vĩ cao sơn, đâu vì một
vài cọng rác rưởi mà quay lưng với trời cao bể rộng!
Con đang suy nghiệm theo hướng tích cực để thấy vai trò của một “thợ tu”. Con thấy rằng sản phẩm của thợ xây là căn nhà; sản phẩm của thợ mộc là bàn ghế; sản phẩm của thợ may là áo quần. Dù là thợ gì thì cũng phải có tổ, có thầy truyền nghề - “không thầy đố mày làm nên”. Vị Thầy gốc - Bổn sư - của chúng con chính là Đức Thế Tôn. Ngài dạy chúng con muốn có nghề tốt thì tự thân phải là con người tốt. Cái gốc của con người tốt nằm ở tâm tốt. Tâm chính là cái khuôn đúc ra tất cả mọi sản phẩm, vẽ ra tất cả mọi bức tranh của thế gian (Tâm như công họa sư, họa chủng chủng thế gian - kinh Hoa Nghiêm). Cuộc đời mỗi người là “sản phẩm” do chính tâm người đó tạo ra, là bức tranh do chính tâm người đó vẽ ra góp mặt cho đời. Khi đã có tâm tốt thì sẽ có người tốt, có sản phẩm tốt và có xã hội tốt. Quan điểm của đạo Phật là muốn xây dựng xã hội tốt, gia đình tốt, con người tốt hay sản phẩm tốt thì trước tiên là phải có tâm tốt. Một người tài năng lỗi lạc mà không có tâm tốt thì người đó là bà con với tội lỗi; một sản phẩm dù giá trị cỡ nào mà không được tạo nên bằng tâm tốt thì sản phẩm đó là bạn bè của giả dối.
Tâm thánh, tâm thiện, tâm thật và
tâm tuệ là những chất liệu từ ngôi chùa cung ứng cho đời. Vun bồi nhân phẩm bằng
những chất liệu này sẽ lợi lạc và cần thiết vô cùng. Có phải cuộc đời đang thừa
chất phàm, chất ác, chất giả dối và chất vô minh? Có phải cuộc đời tôn vinh chất
thánh để giảm thiểu chất phàm, vun bồi chất thiện để đẩy lùi chất ác, rèn luyện
chất thật để diệt trừ giả dối và trau dồi chất tuệ để đoạn tuyệt vô minh? Những
chất liệu vô giá này làm sao có thể lấy thước vật chất mà đo, mà đánh giá, mà
so sánh?
Một lần, Bà la môn Kasi
Bhafradvafja nhìn thấy Đức Thế Tôn đi khất thực, ông không hài lòng và đã miệt
thị:
- Tôi mỗi ngày phải nai lưng đi
cày, vất vả lắm mới có được miếng ăn, còn ông chỉ biết xin ăn, về lo mà cày, cấy,
gieo trồng đi?
- Ta cũng đang cày, cấy, gieo trồng
để có miếng ăn đây ạ.
- Tôi có đủ nông cụ để làm việc,
ông đi xin mỗi ngày, vậy ruộng ông đâu, nông cụ ông đâu?
- Tâm Ta là mảnh ruộng, đức tin là
hạt giống, siêng năng là mưa móc, trí tuệ là cái cày và ách, tàm quý là cán
cày, ý căn là dây cột, chánh niệm là lưỡi cày…. Ta tinh tấn mỗi ngày để gặt hái
hoa trái của an ổn khỏi ách nạn, không còn sầu não, mang hiểu biết, thương yêu
đến cho đời. Việc làm này đưa đến quả bất tử, mọi đau khổ được giải thoát”.
(Kinh Tương Ưng 1, P. Cư Sĩ, mục Cày Ruộng).
Chúng con là những người thực tập
theo hạnh của Thế Tôn, và chư vị tổ sư đi gieo hạt thương yêu, ươm mầm hiểu biết.
Nếu như phàm tâm của chúng con chưa dứt được mùi lợi dưỡng thì cũng không vì vậy
mà qui kết đạo Phật là “đạo làm giàu (vật chất)”, “xây dựng chùa là để kinh
doanh”…
Pháp Phật chỉ có thể mang lại sự
giàu có về an lạc nội tâm; tẩy rửa nội uế, chữa lành những vết thương tâm do những
độc tố tham sân mưng mủ chứ nào chuyên lo phát triển kinh tế? Ngôi chùa được
hình thành là để vun bồi nhân cách, hàn gắn những đổ vỡ trong gia đình, góp phần
kiến tạo xã hội bằng những giá trị văn hóa, đạo đức mang lại hòa bình, hạnh
phúc và công bằng xã hội; đi xa hơn là giải quyết vấn đề khổ đau của kiếp nhân
sinh, xuất ly sinh tử. Đừng ngộ nhận chí nguyện đích thực của người xuất gia là
lợi dưỡng vật chất, trú xứ hành đạo của người xuất gia là môi trường kinh
doanh. Đâu đó vẫn tồn tại một số ít chùa thực tập nếp sống chánh mạng (nghề
nuôi sống chân chính) bằng “kinh tế tự túc”. Từ đó, không tránh khỏi một số rất
nhỏ bị cuốn vào lợi danh. Một số rất nhỏ sao lại “qui hoạch” tất cả chùa (hàng
chục nghìn ngôi) vào điểm “kinh doanh”?!
Dòng sinh mệnh của đạo pháp đã chịu
quá nhiều đau thương qua những biến cố thăng trầm lịch sử. Có những giai đoạn
quê hương bị giày xéo dưới gót giày đinh của cái gọi là “khai minh” thì cũng là
khi mái chùa bị đổ sầm dưới họng súng, nền chùa bị “chuyển đổi công năng”, chịu
trận cho cái “văn hoá ngoại lai” ngự trị.
Lịch sử đã chứng minh, cửa từ bi
không ngã đổ vì giông bão của thời tiết mà chỉ bị ngã đổ bởi sự cuồng nộ của bất
tín và bất thiện. Quê Việt sẽ không bao giờ bị tàn phá bởi đạn bom nhưng hương
Việt sẽ bị tàn phai khi đạo đức bị xuống cấp, văn hóa tâm linh bị chà đạp và hồn
thiêng của dân tộc bị lãng quên.
Trí Chơn
Tin Tức Liên Quan
- Bài 2: Kiếp hư ảo và cuộc hơn thua I Thế Tôn - Ngài vẫn luôn có mặt cho chúng con (30/06/2024 8:37)
- Bài 1: Linh dược và độc dược I Thế Tôn - Ngài vẫn luôn có mặt cho chúng con (30/06/2024 8:35)
- Về đâu lữ khách (21/06/2024 8:54)
- NGUYỆN TRỌN ĐƯỜNG XUẤT SĨ (13/06/2024 1:15)
- Ân tình nguyện quy y (13/06/2024 12:52)
- Một Nụ Cười Lành (13/06/2024 12:51)
- BÉ VỀ TẮM PHẬT (13/06/2024 12:39)
- Nơi tựa nương con về (13/06/2024 12:14)
- Tâm Từ Mở Rộng ( 1/06/2024 3:42)
- Khúc ru hời ngàn năm ( 1/06/2024 2:55)