Pháp thoại "Tông chỉ của Sơ tổ Trúc Lâm"

10/12/2024 2:31
Sáng ngày 08/12/2024, tại Pháp đường Thấy và Biết, thầy Viện chủ đã có thời Pháp thoại với chủ đề “Tông chỉ của Sơ tổ Trúc Lâm” đến hơn 500 hành giả tham gia khóa tu Sống Tỉnh Thức lần thứ 88.

   Bắt đầu pháp thoại, Thầy đề cập đến Đại lễ lớn đối với đất nước Việt Nam và đạo Phật Việt Nam là Đại lễ kỷ niệm ngày Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập Niết bàn trong tháng 12 này.

   Thầy dạy: “Công đức của Trần Nhân Tông thì có thể nói là không thể cân đo đong đếm được”. Ngài là vị vua anh minh và chất đạo thấm trong người từ tấm bé cho nên từ sự ứng xử với dân, với nước và kể cả với các quốc gia gần kề đều thể hiện tấm lòng bao dung và công bằng.


   Trong bang giao với đất nước Chiêm Thành, kết thân với nước lân bang và được vua Chế Mân dâng hiến cho hai châu là Châu Ô và Châu Lý cho Đại Việt và để thể hiện tình giao hảo đó thì Trần Nhân Tông đã hứa gả Huyền Trân Công Chúa cho Chế Mân. Để chiêu phục nhân tâm cùng nhau xây dựng đất nước, khi thắng trận Ngài cung cấp thuyền bè, đồ ăn thức uống cho thù binh về nước. Điều đó còn thể hiện qua: đất nước hòa bình sau chiến tranh, khi nắm giữ được những tài liệu mật là có những vị phản quốc, bất trung với vua thì Trần Nhân Tông đã gác qua chuyện quá khứ và sai đốt những tài liệu đi. Thầy khẳng định: “Đó chính là công phu tu tập của một ông vua, của một vị thiền sư để rồi cuối cùng cả dân tộc tôn vinh là Phật Hoàng, ông vua tu thành Phật”. Đó là dấu ấn thứ nhất.

   Thầy cho biết: Về con đường tu tập của Trần Nhân Tông, từ những ngày đầu tuổi còn rất trẻ được vua cha mời những bậc thầy lỗi lạc dạy dỗ cho kể cả về Nho, Lão, Phật. Trong đó, Trần Nhân Tông tâm đắc nhất là giáo lý của Đức Phật và từ tấm bé Ngài đã chuyên tâm một lòng học Phật. Thầy dạy thiền của Ngài là Tuệ Trung Thượng Sĩ - một cư sĩ thiền sư là anh của Trần Thánh Tông và cũng là anh ruột của Trần Hưng Đạo. Có lần Trần Nhân Tông đã thắc mắc và hỏi thầy Tuệ Trung tinh yếu của Đạo Thiền là gì? Tuệ Trung Thượng Sĩ trả lời: Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.

   Thầy phân tích: “Chuyện tinh yếu của người tu thiền là hãy quán chiếu, soi xét lại nội thân, nội tâm của mình. Đó là bổn phận của việc tu tập và sự tu tập này không do cái bên ngoài có được và từ xưa đến nay từ Đức Phật cho đến chư Tổ, các bậc Thánh Tăng và cho đến chúng ta cũng vậy. Tu tập chính là để soi chiếu lại.” Tiếp đó thầy dạy: “Chúng ta học rất nhiều, chúng ta biết rất nhiều, chúng ta biết một cách cụ thể, biết một cách tường tận, biết một cách chi ly và chuyện gì chúng ta cũng biết. Nhưng hầu hết là biết cái bên ngoài. Đôi khi cái mà ta hiểu kỹ, ta biết nhiều, ta nắm bắt về nó thì nó lại đem lại phiền não khổ đau cho chúng ta mà cái tuệ giác tu tập là để giúp giải quyết vấn đề khổ đau, nghiệp chướng, luân hồi sinh tử, làm sao để bớt khổ, bớt phiền, bớt tham, bớt sân, bớt si, bớt lụy ở trong cuộc sống.” Câu dạy của Tuệ Trung Thượng Sĩ đã trở thành phương châm của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Ngài luôn luôn lấy đó làm tâm yếu của mình trong suốt cuộc đời hành đạo. Và đó được xem như là một nét son của đạo Phật.


   Điểm nhấn thứ hai cũng là một nét son trong cuộc đời của Trần Nhân Tông nói đến tinh thần nhập thế, đưa đạo vào đời – tinh thần cư trần bất nhiễm của Trần Nhân Tông đã trở thành một tinh thần đại thừa trong Phật giáo nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng. Ngài thân tuy ở trong muôn loài, mà tâm vượt trên tất cả muôn loài. Ngài sáng tác một luật bài gọi là Cư Trần Lạc Đạo Phú. Giữa bao nhiêu việc nước vẫn dành thời gian để tu tập, cân đối được thân tâm, khi mà muôn nghiệp đã lặn xuống thì thân an nhàn cái tánh của mình.

   “Ngài có một cái công lớn là thống nhất Phật giáo Việt Nam. Lúc bây giờ là thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi vào năm 580, thiền phái Vô Ngôn Thông vào năm 820 và thiền phái Thảo Đường vào năm 1069, Ngài gom lại hình thành lên một giáo hội tên là Trúc Lâm. Cho nên Ngài được gọi là Sơ tổ Trúc Lâm, Ngài Pháp Loa là Nhị tổ và Huyền Quang là Tam tổ. Cho nên sau này người ta gọi Ngài là Sơ Tổ Trúc Lâm, người ta gọi Ngài là Hương Vân Đại Đầu Đà và sự chứng đắc của Ngài.”

   Cuối pháp thoại, thầy nhấn mạnh lại: “Trần Nhân Tông sáng ngời lấp lánh như một viên kim cương quý của dân tộc Việt Nam và trở thành biểu tượng của Phật giáo Đại Thừa. Tháng 12 dương lịch mang một dấu ấn rất sâu sắc về Phật hoàng Trần Nhân Tông, trên khắp cả nước tổ chức Đại lễ kỷ niệm nhập Niết bàn của Phật hoàng Trần Nhân Tông và thầy muốn ôn lại cuộc đời của một đấng minh quân của dân tộc, một vị thiền sư lỗi lạc và một vị Phật của đạo Phật Việt Nam để nhắc nhớ đại chúng tu tập hành trì theo lời dạy của Phật, của Tổ để có được kết quả tốt trong cuộc sống của mình.”

Tuệ Đạt


Một số hình ảnh ghi nhận khác:


Tin Tức Liên Quan